Thúc đẩy kết nối giao thông, phát triển nhanh, bền vững công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng
Sản xuất công nghiệp phục hồi, phát triển mạnh mẽ với tăng trưởng 8,48% Thúc đẩy Công nghiệp hỗ trợ: Ngành công nghiệp phục hồi mạnh mẽ |
Đại diện các bộ, ban, ngành Trung ương; cấp ủy, chính quyền các địa phương trong vùng và các nhà nghiên cứu, học giả… đã thảo luận, thống nhất nhiều giải pháp quan trọng nhằm phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh mới.
Chính quyền các cấp tỉnh Hà Nam tăng cường cải cách hành chính phục vụ người dân, doanh nghiệp. (Ảnh: Đào Phương) |
Vùng đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam. Đồng bằng sông Hồng là địa bàn đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế-xã hội, quốc phòng an ninh của cả nước; có vị trí rất thuận lợi, hội tụ nhiều lợi thế về phát triển kinh tế-xã hội.
Kết nối hạ tầng giao thông, thu hút đầu tư công nghiệp
Về thu hút đầu tư, vùng đồng bằng sông Hồng cùng với Đông Nam Bộ là một trong hai vùng tập trung chủ yếu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, ước tính đồng bằng sông Hồng chiếm khoảng 30% vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của cả nước.
Theo đánh giá của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, thời gian qua số lượng doanh nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng có sự phát triển vượt bậc, từ 31.965 doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh năm 2005 đã lên tới 253.425 doanh nghiệp năm 2020, tức đã tăng khoảng 7,93 lần sau 15 năm, cao hơn so trung bình cả nước (7,18 lần). Tuy vậy, sự tăng trưởng doanh nghiệp là không đồng đều tại các tỉnh. |
Tuy vậy, tại nhiều tỉnh khác ở vùng đồng bằng sông Hồng, việc triển khai các dự án đầu tư công, dự án đầu tư kinh doanh, dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư vẫn gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc trong các vấn đề như: chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng, nhất là tại các dự án trọng điểm; những khó khăn trong thẩm định hoặc phê duyệt đầu tư.
Để tiếp tục phát triển công nghiệp một cách đồng bộ toàn Vùng, đại diện lãnh đạo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đề xuất thí điểm mô hình liên kết bốn tỉnh Hưng Yên - Hải Dương - Hải Phòng - Quảng Ninh theo trục cao tốc phía đông. 4 địa phương Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương và Hưng Yên thời gian qua đã rất thành công trong thu hút đầu tư và phát triển kinh tế, trở thành một cực tăng trưởng kinh tế quan trọng của Việt Nam.
Những lý do quan trọng là các địa phương này có vị trí địa lý thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào và đặc biệt là việc hình thành và phát triển trục hành lang giao thông, đường cao tốc nối giữa Hà Nội với Hải Phòng và Quảng Ninh, đi qua Hưng Yên và Hải Dương.
Thống nhất với đề xuất trên, TS Phan Hữu Thắng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Viện Nghiên cứu đầu tư quốc tế bổ sung các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài (FDI) trong thu hút dự án công nghiệp. Như chú trọng công tác xúc tiến đầu tư tại chỗ bằng các kết quả thực tế mà các doanh nghiệp FDI đang đầu tư tại Việt Nam đạt được. Chủ động tiếp cận, vận động linh hoạt qua các kênh khác nhau như: chính khách, các nhà đầu tư hiện có, các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức quốc tế …
Đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số
Về tình hình thực hiện chuyển đổi số tại các địa phương trong vùng, thực hiện định hướng phát triển chuyển đổi số quốc gia, các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng đồng bằng sông Hồng đã ban hành Nghị quyết về Chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 và các kế hoạch thực hiện để phục vụ cho chuyển đổi số ở cả 3 trụ cột “Chính quyền số - kinh tế số - xã hội số”. Từ đây đã truyền đi thông điệp cam kết mạnh mẽ của tỉnh trong chiến lược “tăng tốc” chuyển đổi số toàn diện, đáp ứng nhu cầu của “công dân số” trong thời gian tới của vùng.
Tuy nhiên nguồn lực đầu tư cho công nghệ thông tin vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; quản lý nhà nước về chuyển đổi số chưa theo kịp thực tiễn; một số cấp ủy đảng, chính quyền, địa phương chưa thật sự quan tâm đến chuyển đổi số; tư duy đổi mới và hành động trong thiết kế lại mô hình, tối ưu quy trình nghiệp vụ và trong áp dụng công nghệ, dữ liệu số để phục vụ quản lý, điều hành chỉ mới hình thành, chưa phát huy hiệu quả; công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng còn gặp nhiều khó khăn, thách thức; kỹ năng và nhận thức của người dân trong việc tham gia các dịch vụ ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế.
Từ thực tiễn trên, Bộ Thông tin và Truyền thông đề xuất đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi số với các giải pháp:
Về phát triển hạ tầng số, vùng đồng bằng sông Hồng cần đẩy nhanh chương trình mỗi người dân một điện thoại thông minh, mỗi hộ gia đình một đường internet cáp quang, mỗi hộ gia đình một đia chỉ số, triển khai 5G tại các khu công nghiệp để hỗ trợ sản xuất thông minh, cũng như sẵn sàng đón làn sóng đầu tư công nghệ cao.
Tích cực triển khai chính quyền số. Tăng cường việc đưa dịch vụ công lên trực tuyến. 100% dịch vụ công trực tuyến của các tỉnh lên mức độ 4 cần được triển khai nhanh chóng. Không chỉ dịch vụ công mà đồng thời là các hoạt động khác của chính quyền lên môi trường số. Tương tác với người dân nhiều hơn. Mở dữ liệu cho doanh nghiệp tham gia sáng tạo thêm các dịch vụ mới cho người dân. Triển khai chính quyền số từ cấp thấp nhất là cấp xã.
Rà soát, giảm bớt thủ tục hành chính. Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công. Xây dựng cơ chế, chính sách nâng cao hiệu quả của dịch vụ công trực tuyến: Giảm phí, lệ phí thực hiện dịch vụ công trực tuyến theo thẩm quyền, phân bổ chỉ tiêu đến cấp xã, thực hiện thí điểm yêu cầu bắt buộc sử dụng dịch vụ công trực tuyến với một số thủ tục hành chính…
Phát triển mạng lưới đô thị và nông thôn
Theo Kiến trúc sư Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, mục tiêu đặt ra đến 2030, vùng đồng bằng sông Hồng là vùng kinh tế-đô thị hóa phát triển năng động có tính cạnh tranh cao của cả nước; một trong những vùng động lực quan trọng có sức lan tỏa trong phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh-quốc phòng của khu vực phía bắc và cả nước; cơ cấu kinh tế khu vực đô thị phát triển theo hướng hiện đại với các ngành kinh tế xanh, kinh tế trí thức, kinh tế số chiếm tỉ trọng lớn.
Tầm nhìn đến năm 2045, vùng đồng bằng sông Hồng là vùng kinh tế-đô thị hóa phát triển xanh, thông minh và bền vững, có tỷ lệ đô thị hóa cao của Việt Nam, khu vực ASEAN và châu Á. Xây dựng được ít nhất ba đô thị đạt tầm cỡ quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với mạng lưới khu vực và quốc tế.... Góp phần vào việc thực hiện thành công Nghị quyết số 06 của Bộ Chính Trị về quy hoạch, xây dựng và quản lý phát triển bền vững đô thị Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.
Tuy nhiên quá trình đô thị hóa, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị trong vùng đồng bằng sông Hồng thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế. Quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị chưa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới. Mối liên kết vùng còn yếu. Tỷ lệ đô thị hóa đạt được thấp hơn mục tiêu đề ra, còn khoảng cách khá xa so với tỉ lệ bình quân của khu vực và thế giới.
Để làm tốt công tác phát triển mạng lưới đô thị và nông thôn Vùng, chúng ta cần thúc đẩy quá trình đô thị hóa nhanh và bền vững theo hướng tăng trưởng xanh. Lấy phát triển kinh tế đô thị làm động lực phát triển kinh tế-xã hội cả nước, các vùng và địa phương. Tái cấu trúc và tổ chức không gian, xây dựng hệ thống đô thị thống nhất hiệu quả, toàn diện, năng động, có sức cạnh tranh cao; tăng cường liên kết vùng và kết nối đô thị-nông thôn. Nâng cao chất lượng đô thị, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, cải thiện điều kiện sống cho dân cư đô thị. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, tăng cường bảo vệ môi trường và nâng cao khả năng chống chịu của các đô thị, ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai...
Từ góc độ nguồn nhân lực trong phát triển mạng lưới đô thị và nông thôn của vùng đồng bằng sông Hồng, Bộ Lao động-Thương inh và Xã hội nêu ý kiến về công tác giáo dục nghề nghiệp gắn với giải quyết việc làm. Cụ thể là cần tập trung thực hiện các giải pháp đột phá đổi mới và phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đổi mới sáng tạo và phát triển. Đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả, bền vững; đồng thời gắn với chuyển đổi nghề nghiệp, chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Theo Văn Toán/nhandan.vn
Bình luận