Một số khoản thu ngân sách chưa đảm bảo tiến độ dự toán
Thu nội địa tháng 9 ước đạt 73,9 nghìn tỷ đồng, bằng 62,9% mức thu bình quân 8 tháng. Thu từ dầu thô ước đạt 5,6 nghìn tỷ đồng. Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt khoảng 10 nghìn tỷ đồng, bằng 52% mức thu bình quân 8 tháng.
Lũy kế 9 tháng thu NSNN ước đạt 1.223,8 nghìn tỷ đồng, bằng 75,5% dự toán, giảm 8,3% so cùng kỳ năm 2022 (thu ngân sách trung ương ước đạt khoảng 77,9% dự toán, thu ngân sách địa phương ước đạt khoảng 72,6% dự toán).
Thu nội địa 9 tháng ước đạt 1.013,7 nghìn tỷ đồng, bằng 76% dự toán, giảm 3,2% so cùng kỳ năm 2022. Thu từ dầu thô ước đạt khoảng 46 nghìn tỷ đồng, bằng 109,5% dự toán, giảm 22,5% so cùng kỳ năm 2022. Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 163,8 nghìn tỷ đồng, bằng 68,5% dự toán, giảm 26,3% so cùng kỳ năm 2022.
Bộ Tài chính cho biết, trong số thu nội địa, không kể thu tiền sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết, thu hồi vốn, thu cổ tức, lợi nhuận, lợi nhuận sau thuế và chênh lệch thu, chi của Ngân hàng Nhà nước, số thu thuế, phí nội địa ước đạt 75,7% dự toán, tăng 0,7% so cùng kỳ.
Tuy nhiên, vẫn còn một số khoản thu chưa đảm bảo tiến độ dự toán và giảm so cùng kỳ, như: thu thuế bảo vệ môi trường ước đạt 42,7% dự toán, giảm 26,6% so cùng kỳ; các loại phí, lệ phí ước đạt 72,1% dự toán, giảm 11,8% so cùng kỳ; các khoản thu về nhà, đất ước đạt 55,5% dự toán, giảm 48,5% so cùng kỳ.
(Ảnh minh họa: BT) |
Riêng các khoản thu trực tiếp từ 3 khu vực sản xuất - kinh doanh (chiếm 53,3% dự toán tổng số thu nội địa) ước đạt 75,4% dự toán, tăng 5% so cùng kỳ. Tuy nhiên, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp (chiếm gần 46,4% tổng số thu từ khu vực sản xuất - kinh doanh đạt khá so dự toán và tăng 24,4% so cùng kỳ do doanh nghiệp đã tạm nộp 4/5 kỳ theo quy định), thì số thu của 3 khu vực này chỉ bằng 92,5% cùng kỳ.
Về số thu trên địa bàn, ước tính có 25/63 địa phương thực hiện thu nội địa 9 tháng đạt trên 76% dự toán; 11/63 địa phương có tăng trưởng thu so cùng kỳ, trong khi có tới 52 địa phương thu thấp hơn so cùng kỳ.
Để tiếp tục hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn, phục hồi, phát triển sản xuất, kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ hồi phục nền kinh tế trong năm 2023, trong 9 tháng đầu năm, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành theo thẩm quyền ban hành nhiều chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế cho doanh nghiệp và người dân với tổng số tiền thuế, tiền thuê đất thuộc diện được gia hạn, miễn, giảm là khoảng 148.292 tỷ đồng, trong đó: số tiền thuế, tiền thuê đất thuộc diện được gia hạn ước đạt 102.939 tỷ đồng; số tiền thuế, tiền thuê đất được miễn, giảm khoảng 45.353 tỷ đồng, cụ thể:
Trong 9 tháng đầu năm, việc triển khai các chính sách gia hạn thời hạn nộp tiền thuế, tiền thuê đất đạt được những kết quả rất khả quan. Tổng số tiền thuế, tiền thuê đất thuộc diện được gia hạn khoảng 102.939 tỷ đồng, trong đó số tiền thuế còn được tiếp tục gia hạn là khoảng 63.258 tỷ đồng.
Cụ thể, gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo Nghị định số 36/2023/NĐ-CP ngày 15/5/2023: Tính từ thời điểm Nghị định có hiệu lực (21/6/2023) đến nay, ước tính số tiền thuế đề nghị được gia hạn là khoảng 6.064 tỷ đồng. Gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhận và tiền thuê đất theo Nghị định số 12/2023/NĐ-CP ngày 14/4/2023: Tính từ thời điểm Nghị định có hiệu lực (14/4/2023) đến nay: Số tiền thuế, tiền thuê đất thuộc diện được gia hạn ước tính khoảng 96.875 tỷ đồng, trong đó số tiền thuế, tiền thuê đất còn được gia hạn là khoảng 57.197 tỷ đồng.
Đối với các chính sách giảm thu, tổng số tiền thuế, phí giảm hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp trong 9 tháng đầu năm 2023 ước tính khoảng 45.353 tỷ đồng. Trong đó, một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân đã ban hành và có hiệu lực trong năm 2022 tác động làm giảm số thu NSNN trong những tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ ước tính khoảng 9.192 tỷ đồng.
Trong đó, chính sách giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ được quy định theo quy định tại Nghị định số 15/2022/NĐ-CP ngày 28/1/2022 của Chính phủ về việc quy định chính sách miễn, giảm thuế theo nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, thời gian áp dụng từ 01/02/2022 đến 31/12/2022 tuy nhiên, do độ trễ về thời hạn kê khai thuế nên làm giảm NSNN trong tháng 1 năm 2023 ước tính là khoảng 2.960 tỷ đồng.
Chính sách giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng (trừ etanol), dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn, dầu hỏa, nhiên liệu bay theo Nghị quyết số 20/2022/UBTVQH15 từ ngày 11/07/2022 đến 31/12/2022 ước tính làm giảm NSNN tháng 1 năm 2023 là khoảng 6.232 tỷ đồng.
Bảo Thoa
Bình luận